Cầm
máu là quá trình vô cùng có ý nghĩa với mỗi cơ thể sống. Nó giúp cơ thể không bị
mất máu và đảm bảo tính toàn vẹn của mạch máu. Mỗi khi mạch máu bị tổn thương,
làm rò rỉ máu ra ngoài, quá trình cầm máu sẽ được cơ thể tự động thực hiện. Đây
là một quá trình gồm 4 giai đoạn : co mạch, hình thành cục máu đông, co cục máu
đông, tan cục máu đông và hình thành mô xơ.
Có
rất nhiều thành phần cùng tham gia vào quá trình cầm máu, trong đó phải kể đến
các thành phần chính như : tiểu cầu, các sợi huyết fibrinogen và các yếu tố
đông máu khác. Nếu một trong các yếu tố này không hoạt động bình thường, sẽ ảnh
hưởng tới quá trình cầm máu, gây ra nhiều bệnh lý như : rối loạn đông máu, bệnh chảy máu (do thiếu yếu
tố đông máu), xuất huyết giảm tiểu cầu…
Dưới
đây là trình tự các giai đoạn trong 1 quá trình đông máu bình thường trong cơ
thể.
Quá trình đông máu nội sinh và ngoại sinh
1.1. Co mạch tại chỗ.
Do có tính đàn hồi, nên ngay khi mạch máu có tổn
thương sẽ diễn ra sự co mạch tại chỗ.
Quá trinh co mạch
còn được thực hiện nhờ cơ chế thần kinh và thần kinh-thể dịch : những kích
thích gây đau từ nơi tổn thương, những chất trung gian hoá học được giải phóng
khi đau gây phản xạ co cơ trơn thành mạch. Đồng thời lúc này tại nơi tổn
thương, tiểu cầu bị vỡ ra, giải phóng serotonin gây co mạch tại chỗ.
1.2. Quá trình hình thành cục máu đông.
Tại nơi tổn thương, tế bào nội mạc hoặc thành mạch tổn thương để lộ sợi
collagen, tiểu cầu bám vào những nơi này và bị hoạt hoá. Khi các
tiểu cầu này bị hoạt hoá, sẽ làm giải phóng ra các
yếu tố hoạt hóa tiểu cầu bên cạnh nó, làm các tiểu cầu đang di chuyển gần đó tiến
lại gần, kết dính vào nhau, và tạo ra một nút tiểu cầu bịt kín chỗ tổn thương. Mỗi ngày, cơ thể thường chịu hàng trăm tổn
thương nơi mao mạch, cả những mao mạch sâu trong cơ thể, do những va đập và
sang chấn dù rất nhỏ mà có thể mỗi người sẽ không nhận ra. Cơ chế này sẽ giúp bảo
vệ sự toàn vẹn của mỗi mạch máu trong cơ thể.
Tiếp đó, tiểu cầu sẽ giải phóng ra các yếu tố gây co mạch và gây đông máu, tạo
ra cục máu đông bổ sung cho nút tiểu cầu để bịt kín chỗ tổn thương. Những chất
hoạt hoá gây đông máu được giải phóng từ tổ chức và mạch máu bị tổn thương, những
chất do tiểu cầu giải phóng và những yếu tố đông máu của huyết tương được hoạt
hoá, tiếp tục phát động một quá trình đông máu. Công việc chính của
quá trình đông máu là việc hình thành một mạng lưới các sợi fibrin (nhờ hoạt động
của các yếu tố đông máu). Mạng lưới này sẽ giữ các tế bào máu lại trong đó, để
ngăn cản quá trình chảy máu tiếp diễn. Nếu vết thương không quá nặng, sau 3-6 phút cục máu đông hình thành sẽ
bịt kín vết thương. Sau 20 phút đến 1 giờ, cục máu đông
co lại làm cho cục máu vững chắc hơn.
Trong máu có khoảng 50 yếu
tố ảnh hưởng tới quá trình đông máu, bao gồm cả các yếu tố chống đông và các yếu
tố đông máu. Tại môi trường bên trong cơ thể, hoạt động của các yếu tố chống
đông sẽ chiếm ưu thế và giữ cho máu không bị đông, đồng thời có thể lưu thông dễ
dàng trong hệ thống các mạch máu và toàn hệ tuần hoàn. Khi máu được đưa ra khỏi
cơ thể, hoạt động của các yếu tố đông máu lại được tăng cường và chiếm ưu thế. Do
đó có thể nhận thấy, máu khi được đưa ra khỏi cơ thể nhanh chóng bị đông lại.
1.2.Sự co cục máu đông.
Sau khi cục máu đông hình thành, nó bắt đầu co lại và huyết thanh bị rỉ ra
tại đó (huyết
thành là phần dịch trong,
thu được sau khi các yếu tố đông máu bị loại bỏ khỏi huyết tương.)
Tiểu cầu có vai trò quan trọng trong quá trình co cục máu đông. Tiểu cầu
giúp gắn các sợi fibrin lại với nhau và làm ổn định vững chắc cho mạng lưới fibrin. Việc tiểu cầu bám trên lưới fibrin, sẽ làm cho lưới fibrin co
lại đồng thời khi tiểu cầu co lại. Cục máu đông lúc này rất bền vững, và
giữ cho các mép của thành mạch tổn thương khép lại gần
nhau tạo điều kiện thuận lợi cho liền vết thương.
1.4. Sự tan cục máu đông và hình thành mô xơ.
1.4. Sự tan cục máu đông và hình thành mô xơ.
Trong huyết tương có plasminogen (profibrinolysin). Các mô tổn thương, nội mạc tổn
thương và vi khuẩn là nguồn giải phóng ra chất hoạt hoá plasminogen
này. Khoảng một ngày sau khi cục máu
đông, chất này đã chuyển plasminogen thành plasmin. Plasmin là một enzym làm
tiêu fibrin và cả fibrinogen làm tan cục máu. Vì lý do này mà có thể gây ra chảy
máu thứ phát rất nguy hiểm, cần phải được đề phòng. Tại ổ viêm, nếu vi khuẩn
làm tiêu fibrin đi thì có thể sẽ làm cho vi khuẩn lan rộng vì hàng rào fibrin bảo
vệ đã bị phá vỡ. Song cũng nhờ cơ chế này mà trong cơ thể có hiện tượng tự tiêu
fibrin làm khai thông nhiều mạch máu nhỏ bị tắc nghẽn.
Xem thêm : Hướng dẫn xử lý các vấn đề chảy máu trong xuất huyết giảm tiểu cầu ITP
Xem thêm : Hướng dẫn xử lý các vấn đề chảy máu trong xuất huyết giảm tiểu cầu ITP
0 nhận xét:
Đăng nhận xét