Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Giảm tiểu cầu có thể tới từ nhiều nguyên nhân, được phân thành 3 nhóm nguyên nhân chính : giảm sản xuất tại tủy xương, tăng phá hủy trong máu ngoại vi, tăng bắt giữ tại lách.
A, Giảm tiểu cầu là gì?
Giảm tiểu cầu là tình trạng không hiếm gặp , do nguyên nhân dẫn tới tình trạng này rất đa dạng : như do dùng thuốc, do các bệnh lý gây loạn sản tủy, hay các nguyên nhân tới từ hệ miễn dịch.
Số lượng tiểu cầu bình thường lưu hành trong máu ngoại vi ở trong khoảng từ 150.000 – 450.000/ml máu, khi mức tiểu cầu thấp dưới 100.000/ml, được gọi là giảm tiểu cầu. (số lượng tiểu cầu từ 100.000-150.000/ml ở trong tình trạng xem xét).
B, Nguyên nhân giảm tiểu cầu :
Tình trạng giảm tiểu cầu có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân, và được chia thành 3 nhóm:
-          - Giảm sản xuất tiểu cầu tại tủy xương.
-         -  Tăng  tiêu hao và phá hủy tiểu cầu.
-          - Tăng bắt giữ tiểu cầu tại lách.
1, Giảm sản xuất tiểu cầu tại tủy xương

- Giảm sản xuất tiểu cầu thường liên quan đến những vấn đề ở tủy xương (như trong bệnh giảm bạch cầu hạt - agranulocytosis), như:
+ Nhiễm siêu vi ảnh  hưởng đến tủy xương: nhiễm parvovirus, rubella, quai bị, sốt Denge, thủy đậu, viêm gan B, C, nhiễm HIV.
+ Thiếu máu bất sản tủy: tủy xương không thể tạo được bất kỳ loại tế bào máu nào (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu). Tình trạng này có thể do nhiễm virus (parvovirus hoặc HIV), do thuốc men (vàng, chloramphenicol, Dilantin, valproate), do chất phóng xạ, hoặc bẩm sinh (thiếu máu Fanconi).
+ Các thuốc hóa trị ung thư thường gây ức chế tủy xương dẫn đến giảm sản xuất tiểu cầu tại tủy xương.
+ Các thuốc lợi tiểu nhóm thiazide.
+ Các bệnh ung thư tủy xương và ung thư máu (bệnh bạch cầu), ung thư hạch bạch huyết (lymphoma) có thể gây giảm tiểu cầu ở nhiều mức độ.
+ Các bệnh lý ung thư ở nơi khác có thể thâm nhập vào tủy xương và ảnh hưởng đến sự sản xuất tiểu cầu.
+ Uống rượu kéo dài gây độc trực tiếp lên tủy xương.
+ Thiếu vitamin B12 và folic acid có thể dẫn đến giảm sản xuất tiểu cầu ở tủy xương.
2. Tăng tiêu hao và phá hủy tiểu cầu

- Một số bệnh lý có thể gây tăng tiêu hao và phá hủy tiểu cầu. Có thể chia thành 2 nhóm, có và không liên quan đến tình trạng miễn dịch.
- Đa số thuốc có thể gây ra giảm tiểu cầu bằng cách tạo các phản ứng miễn dịch chống lại tiểu cầu (giảm tiểu cầu do thuốc). Ví dụ:
+ Các sulfonamide:
o carbamazepine (Tegretol, Tegretol XR , Equetro, Carbatrol)
o digoxin (Lanoxin)
o quinine (Quinerva, Quinite, QM-260)
o quinidine (Quinaglute, Quinidex)
o acetaminophen (Tylenol)
o rifampin.
+ Heparin, và các thuốc kháng đông tương tự, như Lovenox (enoxaparin=heparin trọng lượng phân tử thấp) đôi khi gây ra phản ứng miễn dịch chống tiểu cầu dẫn đến phá hủy tiểu cầu nhanh chóng. Tình trạng này được gọi là giảm tiểu cầu do heparin (heparin-induced thrombocytopenia=HIT).
+ Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát (idiopathic thrombocytopenic purpura =ITP) là tình trạng chính hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công tiểu cầu. Trong những trường hợp nặng, ITP có thể khiến lượng tiểu cầu giảm xuống rất thấp. Ở người lớn, bệnh thường là một tình trạng mạn tính, trong khi đối với trẻ em, ITP có thể xảy ra sau một đợt nhiễm siêu vi cấp tính. Thường thiết lập chẩn đoán sau khi đã loại trừ các nguyên nhân khác. 

+ Một số bệnh lý về khớp, như lupus ban đỏ hệ thống (SLE) hoặc các bệnh tự miễn khác (bệnh của mô liên kết), có thể gây phá hủy tiểu cầu.
+ Truyền máu và ghép tạng đôi khi gây ra các rối loạn miễn dịch dẫn đến giảm tiểu cầu.
+ Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối (Thrombotic thrombocytopenic purpura=TTP) và hội chứng tăng ure máu tán huyết (hemolytic uremic syndrome=HUS) là những tình trạng tương tự có thể gây ra giảm tiểu cầu tiêu hao không liên quan đến miễn dịch (non-immune related consumptive thrombocytopenia), là hậu quả của việc nhiễm một số siêu vi, việc có thai, do một số ung thư di căn, hoặc hóa trị liệu. Biểu hiện khác của các tình trạng này bao gồm suy thận, lú lẫn, thiếu máu (tán huyết), và sốt. Hội chứng tán huyết do tăng ure máu (HUS) đa phần gặp ở trẻ em và được xem là hậu quả của nhiễm một số chủng vi khuẩn Escherichia coli (E. coli O157:H7) gây tiêu chảy nhiễm trùng.
+ Hội chứng HELLP (tán huyết, rối loạn chức năng gan, giảm tiểu cầu) là tình trạng giảm tiểu cầu không do miễn dịch khác, có thể xảy ra trong thai kỳ và đi kèm với tăng men gan, thiếu máu (thiếu máu tán huyết do vỡ hồng cầu).
+ Đông máu nội mạch lan tỏa (Disseminated intravascular coagulopathy=DIC) là tình trạng hiếm gặp nhưng rất nặng. DIC có thể là biến chứng của nhiễm trùng nặng, chấn thương, phỏng hoặc thai nghén.
+ Tổn thương hoặc viêm mạch máu (vasculitis) và các van tim nhân tạo có thể gây tăng phá hủy tiểu cầu khi chúng trôi ngang qua.
+ Nhiễm trùng nặng (nhiễm trùng huyết) hoặc chấn thương đôi khi có thể gây ra giảm tiểu cầu do tăng tiêu hao (không kết hợp với đông máu nội mạc lan tỏa=DIC).
3. Tăng bắt giữ tiểu cầu ở lách

- Thu gom bắt giữ ở lách cũng dẫn đến giảm tiểu cầu, hậu quả của phì đại lách do nhiều lý do khác nhau. Khi lách lớn, nó sẽ bắt giữ lại một lượng tiểu cầu nhiều hơn bình thường. Các nguyên nhân gây giảm tiểu cầu do phì đại lách bao gồm bệnh gan tiến triển (xơ gan, viêm gan B hoặc C mạn) và ung thư máu (bệnh bạch cầu hoặc lymphoma).
+ Giảm tiểu cầu do pha loãng xảy ra sau khi mất nhiều máu và được truyền máu cấp cứu ồ ạt trong thời gian ngắn.
+ Giảm tiểu cầu giả tạo (pseudothrombocytopenia) là một tình trạng thường gặp khi số lượng tiểu cầu trên phân tích công thức máu toàn phần (CBC) có thể thấp giả tạo do tiểu cầu co cụm với nhau. Nếu nghi ngờ thì nên phân tích máu lại, đếm lại tiểu cầu sau khi đã lấy máu và đưa vào ống nghiệm có pha sẵn hóa chất đặc biệt ngăn không cho tiểu cầu co cụm.
+ Giảm tiểu cầu sẵn có sau khi sinh, còn gọi là giảm tiểu cầu sơ sinh. Đa số những trường hợp này có thể do các nguyên nhân đã nêu ở phần trên, mặc dù đôi khi chúng có thể liên quan đến những tình trạng di truyền hiếm gặp. 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét